gọi hồn ở đâu

Cách chơi của ma: _Bạn không cần phải đến nghĩa trang, bạn có thể tìm một nơi ít người hơn vào ban đêm (gọi là Âm Dương uу) Chơi game ma ở nơi lạnh giá_Bạn cần chuẩn bị 1 hủ gạo nhỏ, 1 điếu thuốc lá, 3 cây nhang, một ít kẹo, câu cá để triệu hồi linh hồn. _phải Một câu chuyện về gọi hồn ở Nam Định. Anh Vũ Văn Trí (Nam Định) từng chia sẻ câu chuyện của chính mình trên báo Pháp luật Việt Nam. Năm 2018, khi đang ăn cơm cùng gia đình thì anh cảm thấy trong người cực kỳ mệt, đau đầu và buồn nôn. Sau lúc được dìu vào giường nằm Với người Thái ở Ngọc Lặc, Thanh Hóa, Tết có lễ 'Gọi hồn' khiến không khí thêm ấm áp, linh thiêng. Văn hóa. Lễ 'Gọi hồn' - phong tục chào đón năm mới độc đáo của người dân tộc Thái nếu tự ý giật đứt thì chủ nhân dễ bị ốm đau. Bà Tồng Thị Nhất, xã Mỹ 868 Lượt thích, 219 Bình luận. Video TikTok từ thùy ngoan (@thuyngoan97): "Này chồng tương lai.hỡi ơi chồng tương lai.ba hồn bảy vía ck tương lai à.anh ở đâu xuất hiện đi.Em mệt lắm rồi 🥲 #gọi_hồn í lộn. #gọichong". Gửi bạn tương lai. Kính mời quý Phật Tử đăng ký kênh ( ) và chia sẻ bài với những Site De Rencontre Pour Personne Handicapé. Dân gian xưa thường quan niệm con người có 3 hồn 7 phách bảy vía. Cổ nhân thường nói nếu con người mất đi hồn phách thì người ta chỉ là một cái xác không hồn. Vậy 3 hồn 7 vía rốt cuộc là gì? Ba hồn là gì? Người xưa quan niệm, con người gồm có phần thể xác và linh hồn. Người ta sở dĩ nói năng, đi lại, sinh hoạt được là nhờ linh hồn trú ngụ ở thể xác nếu không thể xác đó có thể chỉ là một tảng thịt không hồn phách. Khi chết đi, linh hồn rời bỏ thân xác thịt. Thể xác nát vữa, còn linh hồn thì bất tử. Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết “Kiều rằng Những đấng tài hoa Thác là thể phách, còn là tinh anh” Thể phách chính là thân xác thịt, tinh anh chính là linh hồn. Thực ra, quan niệm “3 hồn 7 vía” có nguồn gốc từ Đạo giáo. Họ cho rằng con người sống được là nhờ “tam hồn thất phách” này điều chỉnh mọi hoạt động và tư duy. Vụ Thành Tử trong “Thái Vi Linh Thư” viết “Người ta có ba hồn lần lượt là Sảng Linh, Thai Quang, và U Tinh“. Ba hồn này chính là 3 bộ phận tổ hợp thành thần khí của con người. Người ta mất đi một hồn hoặc hai hồn thì vẫn còn có thể sống sót. Nhưng nếu đã mất đi ba hồn thì sẽ trở thành một cái xác không hồn, sống đời thực vật. Người ta có ba hồn lần lượt là Sảng Linh, Thai Quang, và U Tinh là 3 bộ phận tổ hợp thành thần khí của con người. Ảnh minh họa Làm sao phân biệt một người đã chết hay chưa? Trước đây, căn cứ để đánh giá một người còn sống hay đã chết là kiểm tra xem tim còn đập hay không hoặc còn thở hay không. Tuy nhiên sau đó có rất nhiều trường hợp lạ kỳ xảy ra, tim không đập, cũng không còn hơi thở nhưng sau đó vẫn có thể sống lại mạnh khỏe. Vậy nên, sau này người ta cho rằng chỉ khi não bộ con người bị chết thì người ấy mới được xem là đã tử vong. Thế nhưng có rất nhiều bệnh nhân đã bị chết não, trở thành người thực vật lại được các bác sĩ Trung y cứu sống. Bởi vậy con người hiện đại quả thực không biết làm cách nào để phán đoán một người còn sống hay đã chết. Có khi dù thân xác vẫn sống, vẫn có thể cử động, vẫn có thể ăn uống nhưng thực sự người ta đã chết rồi. Thai Quang là một trong ba hồn quan trọng nhất của con người. Nếu một sinh mệnh không còn Thai Quang thì người đó quả thật đã chết. Có câu chuyện kể rằng, một thầy thuốc Trung y khám bệnh cho vị giám đốc nọ. Sau khi bắt mạch và thăm khám liền nói “Ông hãy về nhà chuẩn bị hậu sự đi thôi“. Vị giám đốc nọ nghe thấy hầm hầm tức giận nói “Ông bị điên à. Nếu y thuật của ông cao siêu đến vậy hãy nói thử xem tôi chết vào ngày nào?“. Sau khi thầy thuốc phán ngày tháng cụ thể, vị giám đốc liền nói “Tới ngày đó tôi sẽ làm mấy bàn tiệc tại tiệm cơm Vương Phủ Tỉnh mời ông ăn“. Hai cô con dâu của vị thầy thuốc cũng tốt nghiệp trường Trung y thấy cha nói vậy thì ngại ngần vội vàng giải thích “Cha tôi già rồi nên phán đoán lẩm cẩm, ông đừng để ý lời ông ấy làm gì”. Cho tới khi vị giám đốc nọ đứng dậy trả tiền đi về, thầy thuốc Trung y vẫn khẳng định “Tôi không lấy tiền của người sắp chết”. Và quả nhiên, vị giám đốc thực sự đã không sống qua khỏi ngày mà thầy thuốc đoán trước. Các thầy thuốc Trung y cổ đại thường có kiến thức uyên thâm về cả nhân tướng học. Họ chỉ cần xem phần “Thần”, chính là Thai Quang, của người ta có còn hay không là biết được sinh tử. Liệu có phải để đánh giá một người còn sống hay đã chết là người ta kiểm tra xem tim còn đập hay không. Ảnh Hồn thứ hai gọi là Sảng linh. Trên thế giới có rất nhiều người sở hữu khả năng tính nhẩm siêu hạng. Lại có những những người có thể nói chính xác thứ của một ngày bất kỳ mà bạn yêu cầu. Điều này không dùng logic tính ra được, đó là một bản năng thiên phú. Sảng linh quyết định trí lực, trí tuệ cũng như phản ứng nhanh chậm của con người. Sảng linh chính là một bộ phận của hồn người. Vì thế Khổng Tử nói “Sinh ra đã biết là đệ nhất, học rồi mới biết chỉ là đệ nhị”. Nhiều người bị thiểu năng trí tuệ, chính là Sảng linh đã bị mất. Hồn thứ ba gọi là U tinh. Nó quyết định tính cách của một người, cũng quyết định việc trong tương lai họ sẽ yêu thương ai. Người ta thường nói “bị ai đó lấy mất hồn”, “tinh thần chán nản”, “hồn xiêu phách tán”… Hồn mà họ ám chỉ ở đây chính là U tinh. Rất nhiều người sau khi thất tình đau khổ tột cùng, nhìn ai cũng không thấy thuận mắt, không muốn gắn bó nữa. Đó là bởi vì U tinh tiêu mất rồi, chính là đã hao tổn, kiệt quệ tinh thần. Vậy khi người ta đi ngủ, những hồn này sẽ ở vào trạng thái nào? Thai quang vốn dĩ chiếu sáng toàn thân nhưng lúc này ánh sáng bắt đầu giảm tối đi, người ta sẽ tiến vào giấc ngủ. Nhưng “phách” của họ vẫn hoạt động. Người xưa nói, gan tàng hồn, phổi tàng phách. Khi người ta chết, phách sẽ rời khỏi thân thể. Vậy phách từ đâu rời khỏi thân thể? Trung y cho rằng thân thể có một cánh cửa, gọi là phách môn, nó là cửa mà phách sẽ rời khỏi thân thể người. Phách môn cũng chính là hậu môn. Bởi thế thời xưa khi cấp cứu người sắp chết thì việc đầu tiên là phải bịt hậu môn lại. Thất phách là gì? Đạo giáo quan niệm, thất phách 7 vía của người ta bao gồm Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế. Người Việt thì có cho rằng Nam có 7 vía, nữ có 9 vía. Điều này có thể xuất phát từ quan niệm thân thể người nam có “thất khiếu” 7 lỗ còn người nữ thì có “cửu khiếu” 9 lỗ. Thất phách này có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết cơ thể con người. Mỗi phách lại đảm đương một nhiệm vụ khác nhau như hô hấp, tiêu hóa, sinh sản, nhịp tim… Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế là 7 phách của con người. Ảnh Sách “Xuân vũ dật thưởng” chép rằng, khi mới sinh ra, người ta sống được 7 ngày gọi là Lạp còn gọi là Cữ, lúc ấy mới có 1 vía. Sau 49 ngày thì đứa trẻ mới có đủ 7 vía thành người. Tiếp đó, sau 100 ngày thì đứa trẻ tròn 1 tuổi nghĩa là cộng cả 9 tháng thai nhi trong bụng mẹ. Bé trai đủ 7 ngày, gái 9 ngày gọi là đầy Cữ. Còn trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn cũng viết “Tục nước ta sinh con được 3 ngày thì chỉ làm vài mâm cỗ cúng Thuần Dưỡng Bà. Đến ngày thứ 7, thứ 9, đầy 100 ngày thì làm lễ cáo gia tiên, yến tiệc linh đình”. Sau khi người ta chết, cứ 7 ngày là 1 kỳ tang, mất đi 1 vía. Sau bảy lần cúng kỳ tang thì cúng tuần Chung thất, tức là hết vía 49 ngày. Sau 100 ngày là cúng Tốt khốc thôi khóc. Theo quan niệm dân gian, sau 100 ngày, hồn vía người ta đã hoàn toàn thoát ly khỏi thân xác thịt, đã chết thực sự. Khi ấy, người nhà chỉ còn niệm tưởng thương nhớ người đã mất trong lòng mà không khóc nữa. Lễ cúng ngoài mâm cơm chay mặn thông thường, còn cần đèn nhang, bông trái, trà nước. Ngày giỗ đầu gọi là lễ Tiểu tường, giỗ thứ hai là lễ Đại tường. Từ đó về sau, người ta chỉ còn cúng người đã mất vào dịp giỗ và Tết. Trong quan niệm của nhà Phật, vong hồn người chết phải qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày rồi mới được siêu thoát. Tục gọi hồn Khi hồn vía người ta xuất ra khỏi thân xác thịt thì coi như họ đã chết. Một khi đã xuất ra thì không thể quay trở lại. Nhưng cũng có những trường hợp hết sức đặc biệt. Vì một lý do nào đó, hồn vía người ta vẫn có thể nhập trở về thân thể. Bởi vậy, người Việt thường có tục lệ gọi hồn. Dân gian quan niệm, khi ốm nặng hoặc bất tỉnh, trải qua một chấn động khủng khiếp nào đó thì người ta sẽ “mất vía”, hồn phách đột ngột tách ly khỏi thân thể. Đó là tình huống mà người ta vẫn gọi là “hồn xiêu phách tán”. Thân thể người ta sẽ cứng đờ, hai mắt thất thần, đồng tử không động đậy, mồm miệng há hốc hoặc ngậm cứng, đồng thời hơi thở rất yếu, tai ù điếc không nghe thấy âm thanh. Để hoàn lại sự sống cho họ, buộc phải có nghi thức gọi hồn. Người nhà thường trèo lên mái nhà hoặc chạy ra ngã ba đường, vừa đi về vừa gọi hồn vía người bị nạn để mong họ có thể trở lại. Câu gọi hồn quen thuộc là “Bớ ba hồn bảy vía ông… ở đâu thì về với con cháu“. Ở một số trường hợp, cách gọi hồn này tỏ ra khá linh nghiệm. Người đang bất tỉnh nhân sự, mất ý thức có thể dần dần hồi lại, tất nhiên phải kèm theo một số biện pháp chăm sóc y tế đặc biệt khác. Ảnh minh họa Vụ Thành Tử viết trong Thái Vi Linh Thư về thuật hoàn phách như sau “Vào nửa đêm các ngày mồng một và rằm của mỗi tháng, 7 phách lêu lổng bên ngoài thân ta, chơi bời với bọn quỷ mị. Cách kiểm soát, chế ngự và gọi phách về hoàn hách là vào những đêm đó phải nằm ngửa, duỗi chân, hai bàn tay che bít hai lỗ tai và để các ngón tay tiếp xúc với gáy, bế hơi thở 7 lần, gõ răng vào nhau 7 lần, tập trung tư tưởng vào đầu mũi. Luồng khí trắng lớn bằng hạt đậu nhỏ, rồi lớn dần dần che kín thân thể trên dưới 9 lần. Khí này bỗng nhiên biến thành 2 con rồng xanh ở 2 mắt và hai cọp trắng ở 2 lỗ mũi, tất cả đều hướng ra ngoài, lại biến thành con chim đỏ ở trên tim hướng ra ngoài cửa miệng người ta“. Sự sống sau cái chết là điều đã được khoa học hiện đại thừa nhận từ lâu. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thuyết vô Thần, người ta vẫn còn gặp trở ngại trong việc chứng thực sự thực đó. Phật gia quan niệm rằng, sau khi chết, người ta đích thực chỉ mất đi phần xác thịt tức là “thể phách”, còn linh hồn, phần “tinh anh” thì mãi trường tồn, lại đi qua kiếp luân hồi để tái tạo sự sống ở kiếp sau. Đi sang kiếp sau, linh hồn ấy vẫn mang đầy đủ nợ nghiệp và phúc báo ở kiếp trước. Bởi vậy, nếu muốn có được phúc báo thì phải biết gây thiện, tránh ác, tu sửa tâm tính, sống thanh bạch, trung thực ở ngay trong đời này. Kiên Định – Văn Nhược Người năng lực càng mạnh thì càng không nổi nóng Your browser does not support the video tag. Please upgrade to lastest version Ad will display in 09 seconds Ma lon và cầu cơ là 2 thuật gọi hồn đơn giản trong dân gianI/ MA LON- Ko nhất thiết phải ra nghĩa địa, mà có thể tìm những nơi vắng vẻ ít người vào ban đêm gọi là “âm thịnh dương suy”-Chuẩn bị 1 lon sữa cỡ nhỏ, 1 điếu thuốc lá, 3 cây nhang, câu vè gọi hồn-Phải là con nít chơi mới dễ “lên”, vì những linh hồn “điều khiển” cái lon thường là con nít chết ngoài đường, rất ham chơi như khi còn tiên cử một người đại diện, lật úp cho đáy lon hướng lên trên, sau đó mồi thuốc lá, 3 cây nhang, bánh kẹo đặt sát bên, đọc câu vè “gọi hồn”. Lúc điếu thuốc rít từng hơi khi ko có gió như có người hút thì chỉ cần đợi hết điếu thuốc là cái lon tự lăn dí người gần gian chơi là 3 nén nhang đốt cùng lúc, hết nhang, lon tự ngừng ko di chuyển nữa* Lót miếng đệm vào mắt cá chân, ma lon chỉ tập trung “cóc” vào chỗ đó II/ CẦU CƠ-Đem ván từ hòm chôn người chết kiếm ở mấy người coi mộ, mài nhẵn, khắc đủ 26 chữ cái, các ô chữ số, bên cạnh có thêm 7 ô chữ “THẦN” - “THÁNH” - “MA” - “QUỶ” -“CÓ” - “KHÔNG” và “THĂNG”-Ra nghĩa địa chơi rất linh, bảo đảm lên 100%, nếu ko kiếm chỗ tối, vắng bóng người cũng được-Ko chơi ở những nơi thờ cúng thần linh-Kiếm người nhẹ vía giữ đồng xu, bắt đầu đọc câu vè mời hồn “Hồn nào ở chốn non bồngQua đây hồn cũng vui lòng ghé chơiDầu hồn dạo khắp mọi nơiGhé đây đàm đạo chuyện đời trần gianCảnh tiên hạc nội mây ngànLàm cho hồn cũng ngỡ ngàng kém vuiCảnh tiên xa lạ bùi ngùiSao bằng cảnh tục hồn vui với ngườiĐờn ca múa hát vui cườiTrà thơm bánh ngọt trái tươi đãi hồnHồn ơi hãy ghé qua đâyTâm tình trăng gió nước mây với hồnGió to sóng cả dập dờnHồn đi lẻ bóng hoàng hôn một mìnhQua đây bè bạn thêm xinhGhé đây bè bạn kết tình âm dươngHồn dầu ở mấy đường cách trởNghe lời cầu xin chớ đắn đoMấy lời tâm sự nhỏ toHồn ai qua đó thấu cho tấm lòngHoặc hồn ở bể sông ngọn suốiHoặc hồn chơi bụi chuối cành đaHoặc hồn nương bóng chiều tàHoặc hồn lẩn quất la đà mây xanhHoặc hồn ở đầu gành cuối bãiHoặc hồn dầm mưa dãi gió mãiHoặc hồn vấn vít với aiHoặc hồn phiêu lãng lạc loài đâu đâuHoặc hồn ở dưới hồ sâuHoặc hồn lơ lửng bên cầu gió đưaHoặc hồn bị gió mưa dồn dậpHồn lạnh lùng tràn ngập cô đơnHồn ghé lại nguồn cơn cạn tỏHồn đừng ngại đường xa bóng nhỏHồn cùng ta mở ngỏ treo lờiHồn về ẻo lả chơi vơiCùng ta tâm sự chuyện đời muôn năm.”-Khi đồng xu chạy vào ô “QUỶ” phải nhanh chóng lật úp bàn cơ, hô to “THÔI” và kéo tay người giữ đồng xu bỏ chạy ngay lập tức, QUỶ rất đáng sợ, kô nên tiếp xúc rất dễ mất mạng. -Chơi cơ cần phải chọn nơi thanh vắng. Nơi tốt nhất là những nghĩa địa hay nhà mồ. Trong lúc chơi phải cấm ngặt chó hoang đến gần hay trẻ con la khóc. Người chơi không được mang những vật dụng như chữ vạn, dấu thánh giá, hay màu chói rọi. Vì các hồn sẽ sợ mà không nhập. Cầu cơ thì mình ko dám, vì nghe mẹ nói trò này nguy hiểm lắm, bà mình lúc còn sống cũng bảo thế. Chẳng ai biết ma quỷ sẽ trả lời ta thế nào, lôi kéo ta đến nơi đâu… ko chỉ đáng sợ đối với người chơi mà đáng sợ hơn là cả với những người thân yêu của họ. Nhưng có ai muốn chơi ma lon với mình ko ? Ai vẫn còn mang tâm hồn thơ bé ấy … ? Giống như hồi nhỏ, ta gọi lại những linh hồn bé bỏng. Giống như hồi nhỏ, ta chạm vào kí ức xa xưa… Và ta sẽ giống như những đứa trẻ con nghèo trong xóm, lễ Xá tội vong nhân rủ nhau đi giật bánh cô hồn…Chỉ vì cuộc sống bây giờ chẳng còn đâu những trò vui ! - via FB Luận giải một cách nhìn… Những câu chuyện về tâm linh, “linh hồn”, các khả năng lạ…đã đi theo lịch sử loài người từ hàng ngàn năm qua, nhưng trong vài chục năm gần đây đã rộ lên trong nhận thức xã hội những luồng thông tin, nhận định khác nhau là bởi ba nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhất là sự xuất hiện những người có khả năng ngoại cảm, một số người có khả năng đặc biệt, khả năng lạ, cùng với đó là các hiện tượng giáng linh, vong nhập, áp vong, ốp vong, gọi hồn qua các thanh đồng, cô đồng…. Nguyên nhân thứ hai là không phải trong chiều dài lịch sử nhân loại không có các hiện tượng trên, nhưng những năm qua nhờ sự phát triển của các phương tiện truyền thông, nên dư luận xã hội nhanh chóng nắm bắt hơn, dù có thể chưa phải là thông tin đã khách quan, phản ánh đúng tính chất của các hiện tượng trên… Nguyên nhân thứ ba là sự nhận thức khác nhau của các tôn giáo, các nhóm tín ngưỡng, trình độ giác ngộ của từng cá nhân, của từng cộng đồng xã hội…đã tạo nên những cách hiểu khác nhau, những cách tin và không tin cũng khác nhau… Đứng trước 3 nhóm nguyên nhân đó tạo thành một bức tranh nhận thức chung – tổng thể của xã hội, chúng tôi tạm chia thành những nhóm người có quan điểm sau đây. Nhóm tin chuyện tâm linh và ngoại cảm, linh hồn là có thật, nhưng không quá tin và bận tâm nhiều về chuyện đó, vì mỗi người tùy theo tôn giáo, tín ngưỡng, có nhận thức khác nhau, cách luận giải khác nhau… Nhóm không tin, coi đó là bịa đặt, hoang đường… Họ phủ định hoàn toàn, không tin chuyện ngoại cảm, gọi hồn, áp vong, vong linh giáng về. Họ không chịu khó dùng trí tuệ để kiểm chứng, mà vì vốn đã tin không có tâm linh, không có “linh hồn”, “người âm”, …nên vẫn giữ quan điểm đó. Nhóm quá tin, thì lại có xu hướng “thần thánh hóa” những chuyện đó quá mức và có nhiều biểu hiện lệch lạc, cho dù niềm tin đó về mặt hiện tượng là đúng, nhưng hành động lại biến thái thành mê tín, dĩ đoan… Dù ở cõi nào, “linh hồn” cũng là chúng sinh – như chúng ta muôn một Trong bài viết này, chúng tôi lưu ý đến một bộ phận trong những người thuộc nhóm tin nhưng không để ý, không bận tâm, tin là tin có tâm linh, có “linh hồn” nhưng không tin chuyện ngoại cảm có thể trò chuyện được với “vong linh”, hay tin các hiện tượng nhập đồng, linh giáng là có thật… Thậm chí có người còn cho rằng tin vào chuyện đó là trái tinh thần Phật giáo, trong Phật giáo không công nhận có chuyện đó. Thực tế, cách hiểu đó đã đúng chưa? Một bộ phận nhỏ những Phật tử coi chuyện giao tiếp với “linh hồn” đa số là ma quỉ, là oan hồn,… với một góc nhìn không mấy thiện cảm. Theo chúng tôi, dù chúng sinh mà nhà ngoại cảm gặp gỡ và trò chuyện đang ở cõi nào trong lục đạo, chúng ta cũng cần có cái nhìn trân trọng, vì “tất cả chúng sinh đều bình đẳng, ai ai cũng có tâm bản thể là tâm Phật”. Tránh cái nhìn của sự “kiêu ngạo giác ngộ”, cho rằng họ là ma quỉ, là các “oan hồn”…mình hiểu thế này, thế kia, thế nọ…là mình cao hơn họ? Trường hợp khác lại có cái nhìn lệch lạc, theo kiểu kể cả chúng sinh ở cõi Thiên cũng chỉ là lục đạo luân hồi, cõi Niết bàn mới là cao, Tứ Thánh quả mới là cao, nên tỏ ra coi thường các chúng sinh trong lục đạo, mà quên rằng mình là ai, mình cũng chỉ là chúng sinh như muôn một mà thôi. Tâm lý này thường nảy sinh ở những người có hiểu biết về lục đạo, về đạo Phật nhưng chưa sâu, và chưa có cách nhìn thấu đạo lời đức Phật đã dạy “Tất cả chúng sinh đều bình đẳng, đều là Phật sẽ thành”. Hiểu biết về lục đạo và cách phân loại cũng sẽ giúp ích cho chúng ta thêm nghị lực và quyết tâm trong việc tu tập, giác ngộ. Để tránh cái nhìn “kiêu ngạo giác ngộ”, tạo nhân cho sự chấp trược, khinh mạn; chúng ta quán tưởng và hình dung, ngay trong cõi Nhân Người cùng là một cõi giới mà sao có người thông minh, có kẻ ngu đần, có người trở thành bác học, có người là nhà tu hành đáng kính, có cả Phật, có Bồ Tát, có Thánh và cũng có cả người bình thường…còn chúng ta – chúng ta là ai? Theo chúng tôi, khi áp dụng cách nhìn của đạo Phật trước các hiện tượng như ngoại cảm, gọi hồn, áp vong, lên đồng…chúng ta cũng nên hiểu như sự đa dạng trong cõi Nhân, với đủ các hạng, bậc chúng sinh khác nhau, thì ở các cõi giới khác cũng vậy. Là Phật tử, chúng tin là có Nhân – Quả, có Luân – Hồi, và chúng sinh dù ở cõi nào, cũng cầu mong cho họ sớm giác ngộ, đặng bề tu tập, hướng đến cảnh giới, cõi giới cao hơn,…Họ như chúng ta, chúng ta như họ, họ cũng như bao người xung quanh ta, với đầy đủ các hạng, bậc, có chúng sinh tốt, có chúng sinh chưa tốt,…tất cả đang hiện hữu như trong cõi Nhân này. Trong khi đó, có những người lại quá thần thánh hóa “linh hồn”, quá đề cao quyền năng của các “linh hồn” và vẽ ra nhiều câu chuyện hoang đường, chúng tôi đã có những thống kê ngẫu nhiên trong 30 chục trường hợp với câu hỏi khi thắp hương cho ông bà tiên tổ, quí vị thường khấn gì? Nội dung như thế nào? có thể việc cầu khấn chỉ mang yếu tố nghi lễ và văn hóa, nhưng qua đó cũng thể hiện việc thần thánh hóa linh hồn? Nhận được kết quả, tạm phân loại theo lời cầu khấn, như sau 25 người cầu mong ông bà tổ tiên phù hộ cho sức khỏe, làm ăn phát đạt… 3 người xin sám hối tội lỗi với gia tiên, ngoài ra không cầu xin gì… 12 người cầu cho con cái học giỏi, cháu, con thi đậu đại học,… 5 người cầu cho con cháu bớt hư, mong ông bà gia tiên giúp giáo dục con cháu… 4 người cầu cho được lên chức, sinh con trai… Rất may trong số 30 người chúng tôi phỏng vấn ngẫu nhiên để thử làm một trắc nghiệm nhỏ, không có ai cầu cho việc buôn bán, làm ăn bất chính. Có lần đọc trên báo ANTG, có phạm nhân phạm tội buôn bán ma túy, đã kể lại cho phóng viên nhà báo rất thật thà, trước lúc bị bắt cháu vừa ra mộ thắp hương cho mẹ và cầu được mẹ che chở, vì mẹ cháu thương cháu lắm, vậy mà…. Bài viết chỉ đề cập một trường hợp cụ thể về chuyện áp vong,…và hiểu tại sao đức Phật không khuyến khích chuyện giao tiếp với các cõi giới, cảnh giới vô hình khác. “Áp vong” để “chơi” chứng khoán…. Tôi có anh bạn, làm giám đốc một Công ty Nhà nước khá lớn ở Thanh Hóa, biết tôi có quen biết một vài người có khả năng lạ, như khả năng áp vong, anh đã nhờ tôi liên hệ với một nhân vật có khả năng áp vong, để cả nhà anh đi áp vong. Nhà anh có 5 người ra Hà Nội, hôm đó có mấy vong linh gia tiên anh nhập vào con cháu, nhưng đáng lưu ý hơn là vong bà cụ mẹ của anh nhập về hơn 3h đồng hồ, bà cụ nhập vào cháu nội, con gái anh – cháu mới 14 tuổi. Theo anh kể bình thường tính cách cháu rất hay sợ ma, ghét nghe mùi lá trầu không, và vụng tính, không để ý chuyện gì trong gia đình, và những chuyện thời bố mẹ, ông bà cháu gần như không nắm được, vì bà nội mất lúc cháu chưa sinh. “Bà cụ” nhập về qua cô cháu nội đã kể những chuyện rất đúng mà theo anh không ai khác có thể kiểm chứng ngoài anh, như chuyện anh bị đứa bạn ném đá vào đầu để lại vết sẹo ra sao lúc bé, theo anh chuyện này vợ, con anh không thể biết được. Sau hơn 2h với đủ các câu chuyện riêng của gia đình, thấy cụ chưa “thăng”, anh hỏi thêm chuyện anh dự định mua miếng đất ở thành phố Thanh Hóa có được không? Cụ trả lời – Con cứ mua đi, được đó, mẹ phù hộ cho. Anh còn hỏi bạn bè rủ rê con chơi chứng khoán, theo mẹ con có nên không? Bà cụ trả lời rất giọng dạc và còn cười rất đắc chí – Con cứ nghe bạn chơi đi, bạn bè giúp con đó, phát lắm đấy… ….6 tháng sau buổi áp vong đầy hân hoan trở về, bỗng dưng chúng tôi nhận được điện thoại của anh tỏ vẻ băn khoăn hoài nghi không biết có phải mẹ anh nhập về hay không, hay có vong nào mạo danh? Nghe giọng anh rất nặng nề, làm tôi cũng hết sức băn khoăn, mẹ anh đã nói và tâm sự như vậy thì còn ai vào đấy nữa? Tôi khẳng định dứt khoát với anh, theo kinh nghiệm của bản thân, tôi dám chắc 100% là mẹ anh. Lúc này, anh mới trút bầu tâm sự, sau buổi áp vong về anh đã mua miếng đất đó và sau mới biết miếng đất đó có nhiều vấn đề phức tạp về pháp lý, anh đã phải thua lỗ hơn một tỷ đồng, còn chơi chứng khoán thì mất những 400 triệu… Đến lúc này, tôi mới có dịp giãi bày cùng anh, tội cho con cháu đã khiến bà cụ phải trở thành nhà tư vấn bất động sản và chứng khoán bất đắc dĩ. Vốn là người thông minh, nhưng là một người nông dân thuần túy, cả đời bà cụ, tôi dám chắc chưa khi nào nghe đến từ chứng khoán, vì bà mất lúc thị trường chứng khoán Việt Nam chưa ra đời, thế mà anh lại đi hỏi và tin lời cụ như là chuyên gia. Chúng tôi cho rằng, với “linh hồn” – chúng sinh ở cõi khác trong lục đạo dù còn nhân duyên và có những ảnh hưởng qua lại theo hướng tốt – xấu với cõi Nhân, hiểu nôm na là phù hộ hay làm hại cho con cháu là có. Những điều này chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn ở các kỳ sau, kể cả hiện tượng “linh hồn” về chữa bệnh cho người dương… Nhưng chúng ta quá tin vào chuyện đó, là đánh mất sự tự tin của chính mình và như câu chuyện trên thành ra mê tín dị đoan. Có những câu chuyện lại mê tín đến mức, có người lúc sống còn không giải quyết nổi những câu chuyện thực tế, nhưng lúc thác đi lại được các nhà ngoại cảm dỏm, các thanh đồng, tôn thành nhân vật có khả năng can thiệp vào đủ chuyện ở cõi Nhân và các câu chuyện thế sự với một sức mạnh tâm linh phi thường?! Trường hợp trên, nếu anh nghĩ bà cụ cũng là một chúng sinh bình thường, như lúc sống, có những việc có thể giúp con cháu, với những giới hạn nhất định, và có những việc là không thể thì mọi việc sẽ khác, trong khi đa số mọi người lại có xu hướng “thần thánh hóa” phần “linh hồn” sau khi chết với những quyền năng lớn hơn lúc sống? Điều đó có phần đúng, và có phần sai, chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn vào các kỳ tiếp theo. Tại sao đức Phật khuyên không nên giao tiếp với cõi giới khác? Hiểu lời khuyên này như thế nào cho đúng? Để trả lời đúng trọng tâm của kỳ này, nên hay không việc gọi hồn, áp vong và quan điểm của Phật giáo ra sao về vấn đề, chúng tôi cho rằng, một số quí Thầy khi trả lời cho quí Phật tử những câu hỏi tương tự thường nói là không nên, vì đa số những người giữ quan điểm này cho rằng, việc giao tiếp với các “linh hồn” không mang lại lợi lạc nào, mà chỉ dẫn đến mê tín, dị đoan…và việc giao tiếp đó, ảnh hưởng đến cả người sống lẫn người đã khuất. Việc này làm cho các “thần thức” lại cứ luẩn quẩn và quyến luyến không lợi lạc cho chính họ trong việc đầu thai, tái sinh, kéo dài mãi tình trạng bám kẹt và cố chấp thân xác hài cốt nên họ khó có sự tái sinh, chuyển kiếp. Chúng tôi lại có cách hiểu, về mặt lý thuyết nhà ngoại cảm có thể “trò chuyện” được với chúng sinh ở tất cả các cõi giới khác, tuy nhiên để giao tiếp được hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đã phân tích ở các bài viết trước. Theo nhận thức sơ cơ của chúng tôi, đa số các giao tiếp đó là với chúng sinh ở cõi Atula, cõi Thiên….và họ chính là chúng ta và chúng ta chính là họ. Thời đức Phật không khuyến khích những người có khả năng thần thông giao tiếp với họ là ý cắt bớt nhân duyên để tăng bề tinh tấn tu tập, hướng đến con đường giải thoát giác ngộ. Đức Phật khuyên các đệ tử là gắng công tu tập, nâng cao hạnh quả…để hồi hướng công đức đó cho khắp tất cả đệ tử và chúng sinh để ai ai cũng có công đức, duyên lành để tu tập. Sự giao tiếp du ở bất kỳ cõi nào, kể cả cõi mà chúng ta đang sống cũng không nên giao du với bạn xấu…., song đó là các mối giao duyên không tốt, nói cách khác là không nên chơi với bạn xấu để bị bạn xấu “cải hóa ngược”, còn giao tiếp mà mang lại lợi lạc về đạo Pháp, hay giác ngộ được đối tượng giao tiếp thì dù họ là cõi nào cũng phúc đẳng hà sa…. Hiểu như vậy, để chúng ta đừng nghĩ các chúng sinh ở cõi vô hình như là gì đó xấu xa chúng ta phải xa lánh họ, cũng đừng thần thánh họ với những quyền năng và khả năng này nọ một cách quá mức thành ra mê tín, hoang đường. Hiểu như thế cũng đã trả lời cho câu hỏi nên hay không nên áp vong, gọi hồn và quí vị tự có câu trả lời cho các trường hợp cụ thể của mình… Vì bên cạnh những người am hiểu đạo Phật, còn nhiều loại hình thức tín ngưỡng khác, nhận thức khác trong xã hội… Đâu phải chúng sinh ở các cõi vô hình, mà ngay trong cõi Nhân cũng có kẻ tốt, người xấu, chúng ta sẽ chọn sự giao tiếp và trò chuyện với ai. Tất nhiên, đức Phật cũng khuyên chúng ta chọn người tốt để bạn cùng “đồng tu”, nhưng nếu gặp kẻ xấu mà có duyên có thể giúp họ cải huấn trở thành người tốt thì sao không gặp? – tinh thần Phật pháp là ở đấy chứ ở đâu?! Tất nhiên còn tùy thuộc nhiều yếu tố như nhân duyên, khả năng, thời gian, mục đích…và không nhất thiết làm nếu không có hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả về hoằng pháp, trợ duyên giúp họ giác ngộ. Có lẽ thấu được nhân duyên của chúng sinh, nên chúng tôi hiểu trong một số câu hỏi của đệ tử – Đức Phật đã im lặng, không trả lời. Thực ra đức Phật không trả lời đã là một cách trả lời Vì, có những điều “bất khả tư nghị”, không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả được, phàm đã “nói” là “sai”, đã “viết” là “sai”. Những điều nói, viết chỉ mục đích duy nhất là để chúng sinh tăng tiến phần trí tuệ để hướng đến khai mở trí huệ, khi đã có trí huệ thì chúng ta tự trả lời được những câu hỏi mà đức Phật đã im lặng. Sự im lặng ở đây, là một câu trả lời rất uyên thâm, đúng là không chứng không hiểu, không hiểu thì không biết. Đó là “bất khả tư nghị”. Đức Phật đã từng khuyên các đệ tử Có bốn hiện tượng bất khả tư nghị, này tỉ-khâu, bốn trường hợp mà người ta không nên suy ngẫm, đó là năng lực của một vị Phật pi. buddhavisaya, Định lực pi. jhāna-visaya, nghiệp lực pi. kamma-visaya và suy ngẫm, tìm hiểu thế giới pi. lokacintā…” Tăng nhất bộ kinh, IV. 77. Trong trường hợp tâm linh và ngoại cảm, theo chúng tôi trong một số phẩm đoạn trong các quyển kinh, đức Phật khuyên các đệ tử có khả năng thần thông có thể giao tiếp trò chuyện được với chúng sinh ở các cõi giới khác không nên chạy theo cái “khả năng thần thông” để giao tiếp với họ là vì e rằng chúng sinh đi sai đường, vì mải mê cho cái chứng đó, mà quên mất con đường chính đạo. Hơn nữa, hơn ai hết đức Phật đã nhìn thấu căn cơ của chúng sinh, nên nếu khuyến khích thì với căn cơ của đa số chúng sinh sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường? Do vậy, đức Phật đã khuyên không nên giao tiếp, coi trọng cái đó? Khi miêu tả về hình dáng, kích thước của chúng sinh trong cõi Atula và một số cõi giới khác, có nhà nghiên cứu cho rằng, các đệ tử sau này khi viết lại lời Phật dạy, vẫn có những lúc có thêm bớt và mượn các hình ảnh trong đạo Bà la môn?! Điều này chúng tôi sẽ phân tích ở nhiều kỳ tiếp theo. Đó là cách miêu tả về hình dáng, kích thước chúng sinh,….thậm chí theo quan niệm dân gian Việt Nam thì “trần sao, âm vậy” – nhiều người lại càng tin hơn khi một số nhà ngoại cảm miêu tả “cõi âm” như “cõi trần” vậy, có tổ chức xã hội, có người làm to, kẻ làm nhỏ, có kẻ không có áo cơm và có kẻ giàu sang đầy đủ vàng, bạc, châu báu… Chúng tôi không cho rằng miêu tả đó là đúng, nhưng tại sao một số nhà ngoại cảm lại miêu tả như vậy? Theo chúng tôi, trình độ giác ngộ của chúng sinh ở các cõi khác, hoặc ngay trong từng cõi cũng ở các mức độ giác ngộ khác nhau, chúng tôi không tin chuyện “trần sao, âm vậy”, nên đã chất vấn một số nhà ngoại cảm và thấy họ bị ảnh hưởng bởi sự hiểu biết của mình rất nhiều chi phối bởi 5 giác quan thông thường khi nhìn vào cảnh giới vô hình. Bạn đọc có tin không? Đó là quyền của bạn đọc. Để tự rút ra chiêm nghiệm của bản thân, bạn đọc thử trực tiếp phỏng vấn các nhà ngoại cảm có am hiểu đạo Phật, và nhà ngoại cảm chưa am hiểu nhiều về đạo Phật sẽ thấy những so sánh thú vị….. Và với các dẫn chứng thực tế, chúng tôi sẽ thử giải thích ở các kỳ tiếp theo những câu hỏi từ thực tiễn, nêu trên. Còn về tính chất, tính cách khi miêu tả về chúng sinh ở cõi Atula thì có nét riêng, ít bị ảnh hưởng bởi cái tính chất miêu tả mang tính hình ảnh của tôn giáo khác có trước khi đạo Phật ra đời – với tư cách là một tôn giáo. Một trong các nét tính cách đó là, sự hiếu thắng, thích chinh phục…nên khi giao tiếp với con người họ rất hay thể hiện tính cách này, con người nếu mà quá tin vào đó sẽ dẫn đến mê tín, dị đoan và lệch lạc trong nhận thức, trong tư duy giác ngộ đạo Pháp? ở đây vì tập trung phân tích cõi Atula, nên chúng tôi chỉ nhắc đến cõi này. Theo chúng tôi, đức Phật khuyên là không nên có những giao tiếp giữa con người và chúng sinh ở cõi khác là vì hiểu theo cái căn cơ đó của chúng sinh ở từng cõi khác nhau trừ trường hợp những người có sự hiểu biết và giác ngộ đạo Pháp, thì dù ở cõi nào cũng là trường hợp khác? Còn thực chất, đức Phật không cấm, nếu chúng ta ý thức rõ về sự giao tiếp đó – có mang lại sự lợi lạc nào không, đặc biệt là sự lợi lạc về đạo pháp, sự tinh tấn về đạo hạnh. Trong không ít đoạn, phẩm kinh đã miêu tả cảnh nhiều cõi giới, chúng sinh với các căn cơ khác nhau vân du về nghe các vị đại Bồ Tát, đức Phật giảng giải Phật pháp đó sao? Sự giao tiếp vì lý do đạo Pháp như vậy, đức Phật đâu có cấm… Trong cuộc sống, chúng ta quan sát và nhận thấy có hai nhóm người có thể giao tiếp với các “linh hồn” theo các cách khác nhau. Cách thứ nhất là giao tiếp song đôi, giữa người có khả năng đặc biệt và các “linh hồn”, chủ yếu ở dạng nghe thấy, một ít khác là nhìn thấy,…các trường hợp này đa số là các nhà ngoại cảm… Cách thứ hai là qua các hiện tượng nhập vong qua cô đồng, áp vong, gọi hồn…đa số là qua các thanh đồng, ghế đồng…. Bạn đọc thử so sánh, trong cuộc sống đời thường, loại bỏ yếu tố đạo hạnh, thì giữa các nhà ngoại cảm và các cô đồng, thanh đồng… có điều gì khác nhau? {lưu ý, chúng tôi phân biệt giữa nhà ngoại cảm và các cô đồng, thanh đồng, không như cách đặt vấn đề của một số nhà nghiên cứu, sử dụng thuật ngữ “ngoại cảm” để gọi một số thanh đồng, ghế đồng là nhà ngoại cảm…. Trong thực tế có người vừa có khả năng ngoại cảm + vừa kết hợp vai trò là ghế đồng, thanh đồng}. Điều khác nhau, cơ bản đó là các nhà ngoại cảm về mặt tâm lý, sinh lý họ cũng là những người bình thường trừ trường hợp cá biệt, còn các thanh đồng, ghế đồng thì như dân gian thường gọi là đồng bóng, hay “ghen như ghen đồng”, “dân đồng bóng”; “chiều như chiều vong”…. “sáng nắng, chiều mưa”…Điều đó có phải do Tâm họ chưa định? Vì sự giao tiếp theo hình thức bị “vong” điều khiển,…nên ảnh hưởng đến đời sống tâm, sinh lý và thể trạng….? Sự giải thích đang chờ từ các nhà nghiên cứu. Chúng tôi hiểu, lời khuyên của đức Phật trong các trường hợp này thật hữu lý, vì không riêng gì các thanh đồng, ghế đồng, mà ngay cả một số nhà nghiên cứu lưu ý một số nhỏ, không phải là tất cả, sau khi tiếp xúc với nhiều cách nói chuyện khác nhau của các “vong linh” cũng đâm ra hoảng loạn, càng tìm hiểu càng không thể hiểu nổi “cõi âm” như thế nào – có 2 nhà nghiên cứu có danh vừa tâm sự, vừa chia sẻ về sự hoang mang với tác giả như vậy khi nhận định về “cõi âm”. Sự hoang mang ở đây, cũng dễ hiểu, vì có vong linh khi tiếp xúc về kêu than con cháu “thiêu” cụ nóng quá….thế là nhà nghiên cứu A đã vội kết luận là với người chết không nên thiêu mà nên chọn hình thức địa táng…. Một thời gian sau, có vong linh khác khi tiếp xúc lại khen là thiêu thì thân xác sạch sẽ, không cảm thấy bị thối, rữa, giun, dế gặm, nhấm,…nên rất hoan hỉ…đến đây, nhà nghiên cứu A quá tin lời của “vong” bắt đầu rơi vào tình trạng không hiểu nổi “cõi âm” là gì? Tại sao trước, sau bất nhất? Không riêng những câu chuyện trên mà có vô vàn những câu chuyện khác, có vong về đòi đốt vàng mã, có vong về nói thẳng là không nên, đốt như thế là hoang phí, là mê muội….Tại sao lại như vậy? Chúng tôi lại có cách hiểu khác, qua phép quán tưởng, ngay cõi Nhân chúng ta, nếu không phải là bậc giác ngộ rốt ráo thì cho dù là thánh nhân lời của họ nói ra đâu phải đã là chân lý? Một cõi Nhân – như chúng ta thấy có Phật, có Bồ Tát, có Nhà khoa học, có công nhân, nông dân, có người mù chữ, có kẻ ác hơn cả ác quỉ…. Vậy sao cứ lấy lời của một vài chúng sinh để luận là “cõi âm” thế này, “cõi âm” thế kia….? Liệu có đáng tin cậy không? Đó là chưa kể với nhà ngoại cảm, đặc biệt là các thanh đồng, ghế đồng ở đây loại bỏ hiện tượng lừa đảo kể cả khi họ giao tiếp thật sự với chúng sinh ở các cõi giới vô hình ít nhiều bị ảnh hưởng bởi nhận thức của chính mình, sự hiểu biết của mình. Điều này đã được chúng tôi thực hiện nhiều thí nghiệm, và ở các thanh đồng, ghế đồng cũng có các trạng thái khác nhau như đồng tỉnh, đồng mê, …có lúc dân gian hay gọi là nhập sâu, hay nhập cạn. Có phải vì có 3 hồn 7 vía, 3 hồn 9 vía và tùy theo các vía nhập vào ở mức độ nào đó mới có hiện tượng đồng tỉnh, đồng mê không? Điều này, chúng tôi cũng mong các bậc cao minh chỉ giáo. Riêng bản thân chúng tôi qua quan sát từ các nhân vật có khả năng ngoại cảm, khả năng gọi hồn, áp vong và từ bản thân mình, chúng tôi hiểu sự ảnh hưởng thông tin trong nhận thức của “chủ thể” là rất cao, sự ảnh hưởng ở đây có 2 trạng thái, ảnh hưởng khách quan có khi vong nhập vào, bị ảnh hưởng nhưng ghế đồng, thanh đồng không ý thức được sự ảnh hưởng đó và ảnh hưởng chủ quan ảnh hưởng mà thanh đồng, ghế đồng ý thức được, song ở trình trạng tự động bị điều khiển, hoặc thanh đồng, ghế đồng chủ động sử dụng ý thức để áp đặt và lẫn lộn tình trạng lời của vong, lời của bản thân đan – xen… Đó là một cách để hình dung, thực tế để tả lại trạng thái thân xác mình bị điều khiển bởi “linh hồn khác” quả thật là rất khó diễn tả bằng ngôn ngữ… Có phải vậy không, các nhà ngoại cảm, bạn đọc rất muốn nghe các nhà ngoại cảm, đặc biệt là những nhà ngoại cảm nổi tiếng, có am hiểu đạo Phật, hoặc trước đây chưa hiểu lắm, nhưng sau khi tìm hiểu đạo Phật đã có sự thấu hiểu sâu mật hơn, xin mời quí vị lên tiếng, để bạn đọc bớt chút băn khoăn,…Coi đó như thêm một kênh để tham khảo. Còn nữa… Kỳ 1I Kỳ 2 I Kỳ 3 I Kỳ 4 I Kỳ 5 I Kỳ 6 I Kỳ 7 I Kỳ 8 I Kỳ 9 I Kỳ 10 I Kỳ 11 I Trân trọng cảm ơn Quí đạo hữu Chúng tôi rất hoan hỉ khi nhận được chất vấn của bạn đọc. Tác giả khởi tâm cầu thị học hỏi từ các bậc cao minh, các nhà tu hành, từ quí đạo hữu và quí vị,…ở các kỳ tiếp theo, tác giả thử đưa ra cách lý giải về những câu hỏi tập trung vào các ý sau “Cõi âm” – theo quan niệm trong dân gian mà nhà ngoại cảm giao tiếp với các “linh hồn”, tương ứng với cõi nào theo cách phân loại của Phật giáo? Thánh thần trong quan niệm của đạo Mẫu, đạo Tứ phủ đang ngự ở cõi nào theo cách chia cõi của đạo Phật? “Linh hồn” thông minh hơn lúc đang còn thân xác. Tại sao? ….Và nhiều câu hỏi khác, toàn những câu “rất khó”, nhưng càng khó càng hay. Sự thắc mắc, nêu câu hỏi của quí vị – chứng tỏ sự quan tâm của quí vị đúng tinh thần Phật pháp, điều đó giúp cho phật tử sơ cơ Giới Minh được thêm phần học hỏi từ quí vị rất nhiều. Xin được gửi lời tri ân và lòng cảm tạ, phần luận giải sai Giới Minh xin được lãĩnh nhận, phần đúng – sự lợi lạc nếu có xin được gửi tặng cho tất cả quí đạo hữu, quí vị và các bạn. Tinh thần của đạo Phật là tinh thần hãy hoài nghi, phản biện, và quan trọng hơn là tu tập theo lời Phật dạy, tự thực chứng, tự rút ra kết luận, tự chiêm nghiệm… 1. Là xuống tìm linh hồn đó mời họ Là các thầy dùng lệnh để lôi về hoặc nhờ vong khác lôi về. Cách thứ nhất thì chẳng có mấy ai làm được. Người làm được cách đó cả nước này may ra có vàingười. Còn cái cách thứ 2 thì đa số các thầy, cô đều làm, đây chính là cái chết của mấy thầy, đang xem Thầy tùng gọi hồn là aiNhư việc 1 người đang đứng bỗng túm áo lôi đi thì họ đánh cho là phải. Các thầy cô cứ thấy gọi về được tưởng là không sao. Xin thưa là lúc đó phúc thầy cô còn họ chưa làm gì được. Họ chỉ biết mài phúc dần, phúc mỏng thì họ ập vào đánh cho. Thế nên mới thầy cô sau này với gia đình sập từ trên xuống dưới là vì nữa là gọi về nhập vào người thưa là gia tiên không bao giờ muốn nhập vào con và dương không thể cùng chung. Nhập vào sẽ tổn hại cả 2 dương sẽ mất đi dương khí của người đó mà cụ thể hơn là giảm thọ. Những người bị nhập biết rõ nhất, họ rất mệt mỏi sau mỗi lần âm sẽ bị tổn hại cái tu hạnh của người ta. Khi mà người ta có thể tu vài ba năm người ta có thể siêu thì nhập vào rồi sẽ bị giảm đi lại phải một thời gian dài cha mẹ nào muốn tổn hại con cháu đâu,với chân linh gia tiênhọ biết điều đó nên họ không nhập tiên dòng họ có về chỉ ảnh bóng thôi. Tức là với người bị ảnh bóng họ vẫn nhận biết được nhưng có những cái cơ thể họ không điều khiển được. Lúc mà người thân mất bị đau ở đâu hay như nào đôi khi người con cháu đó thấy đau đúng ở vị trí đó và cảm nhận như thế. Người con cháu đó nói ra những điều mà tự họ không muốn nói. Lúc ấy là gia tiên chỉ ngồi cạnh bên mà gia tiên nhập vào chỉ trừ khi có thầy đắc đạo ngồi trợ khí cho họ không để tổn hại hai bên. Mà những thầy như vậy lại không bao giờ đi làm gọi hồn vìtrái quy luật âm tiên thấy con cháu bị nạn muốn cứuTrường hợp nữa là gia tiên thấy con cháu có nạn muốn cứu mà không có cơ duyên gặp người sang tai cho con cháu thì họ về nhập thẳng vào con cháu khi ở trong nhà hoặc ở ngoài mộ chứ chẳng cần đi thầy cô vào rất nhanh rồi ra luôn. Những người nhà bị nhập thế là cái phúc họ đang rất kém rồi nên mới dễ bị nhập như đi gọi hồn gia tiên không nhập thì ai nhập???Vong bình thường họ vào họ chỉ chiếm được xác nhưng không nói được. Quỷ vào thì nói được còn đi lại thấy nhập mà nói đúng lắm cái gì trong nhà cũng biết???Xin thưa có những vong người ta mất cả mấy chục năm cả trăm năm họ vẫn không siêu. Nhà bạn có cái gì họ biết rõ hết kể cả tên gia đình đọc từng người. Chưa kể bạn dám khẳng định xung quanh nhà bạn không có vong nào. Hỏi một cái là ra vào mấy ông thầy bà cô???Xin thưa thế này, mấy ông thầy bà cô một là không biết cho vong vào nói. Hai là họ biết tác hại họ không cho vong vào đâu. Toàn để vong khác đứng ngoài nói cho biết rồi truyền lắc lư thì ngày nào ngồi cũng lắc dẻo ngay ấy mà. Thậm chí có rất nhiều thầy bà không có khả năng, chỉ toàn nói người trong vùng thường không đến xin gọi hồn người âm tại các cô đồng, người gọi hồn cũng không mặn mà gì với những người “quen”. Thành ra họ vẫn thường “ngân nga” rằng do bụt nhà không thiêng nên không gọi hồn được. Đa phần những người đến xin các cô đồng gọi hồn người âm đều từ các địa phương khác. Những người này cũng chỉ nghe đồn thổi về sự cao tay của các cô đồng này mà chưa một lần được tận mắt chứng kiến. Nhiều người vì mê tín, vì sợ phạm lỗi với người khuất và vì sự cái “uy” của các cô đồng nên răm rắp làm theo những gì cô đồng đồng nói, không dám cãi nửa lời…Việc gọi hồn có nên hay không??? thật sự là không giờ một người đã mất rồi đang cố gắng không chấp vào điều gì nữa. Tự dưng con cháu gọi về kêu con biếu thứ này thứ nọ làm cho người ta bỗng dưng nhớ lại cái chấp niệm lại cao lên làm sao mà siêu thoát được. Khác gì đang đi học có người dúi tiền kêu đi chơi chúng ta cần là tích công đức là hồi hướng cho gia tiên và thắp nén hương tưởng nhớ họ. Công đức hồi hướng như là hành trang cho gia tiên trên con đường tu gia tiên luôn nhớ thương con cháu đôi khi họ lộn lại chính là những con vật trong nhà mà mọi người đang nuôi. Đôi khi vì miếng cơm manh áo, tiền đóng học phí của mình hay một món đồ chơi cho mình mà ông bà, bố mẹ phải tạo nghiệp để bị đày xuống thêm Tôi Chu Du Khắp Thế Giới Mà Tôi Vẫn Ở Nguyên Một Chỗ Tôi Là Ai ?Con cháu hãy vì thế mà năng làm việc thiện nguyện để trả ơn gia tiên nhà mình. Chứ đừng u mê gọi hồn làm gì cả.

gọi hồn ở đâu